Nhân khẩu Nhà_Kim

Sau Nghị hòa Thiệu Hưng năm 1141, tình trạng nhân khẩu giảm thiểu ở phương bắc từ sau sự biến Tĩnh Khang bắt đầu được khắc phục ở mức độ nhất định, đến năm 1207 thời Kim Chương Tông thì đạt 53.532.151 người, cũng là mức tối đa của Đại Kim. Đương thời, tổng nhân khẩu của Kim, Nam Tống, Tây Hạ ước tính là khoảng 136 triệu người. Trong lần thống kê nhân khẩu chuẩn xác thứ tư của triều Kim, mỗi hộ bình quân có trên 6 khẩu, quy mô hộ dưới triều Kim đông đảo, có quan hệ nhất định với việc các quý tộc và mãnh an-mưu khắc sử dụng một lượng lớn nô bộc.[23]

Kim Thái Tổ và Kim Thái Tông khi thống trị Trung Nguyên đã đưa hơn 1 triệu người Nữ Chân đến vùng đất hạ du Hoàng Hà vỗn đã có nhân khẩu đông đúc, dùng biện pháp hy sinh lợi ích của người Hán phục vụ cho người Nữ Chân, mục đích là để đáp ứng cho sinh hoạt và quân sự của họ. Cùng lúc với việc đưa những di dân mới người Nữ Chân đến chiếm lĩnh đất đai Trung Nguyên, người Khiết Đan và người Hán bị đưa đến nội địa của triều Kim (tức vùng Mãn Châu ngày nay). Trong cuộc chiến tranh chống Liêu, quân Kim từng bắt được một lượng lớn người Khiết Đan và người Hán làm nô lệ. Sau đó, Kim Thái Tổ từng hạ chiếu cấm chỉ giam giữ bách tính chịu đầu hàng, cấm chỉ nhà quyền thế mua dân nghèo làm nô lệ, lại quy định những người từng bán thân làm nô lệ có thể dùng công lao động để chuộc thân, song trên thực tế khả năng nô lệ có thể tự chuộc thân là rất thấp. Cư dân người Hán bị buộc phải thiên di không thể không trở thành nô lệ với số lượng lớn. Triều đình Kim đối với nhân dân khu vực chịu đầu hàng tuân phục thì áp dụng biện pháp cưỡng bách thiên di đến nội địa. Như cư dân các châu huyện Sơn Tây bị buộc phải thiên di với số lượng lớn đến Hồn Hà lộ thuộc Thượng Kinh của Kim. Cư dân địa khu Thượng Kinh lại được dời đến Ninh Giang châu. Nhân dân Bình châu nổi dậy phản kháng, sau khi bị trấn áp thì phải cùng với cư dân Nhuận châu, Tháp châu, Lai châu, Thiên châu dời đến đông đô Thẩm Dương. Những cư dân này không thể vượt qua khó khăn để tồn tại, buộc phải bán thân làm nô lệ, khiến người Hán hận thù sâu sắc.[23]

Nam giới Nữ Chân để kiểu tóc "lưu lô hậu phát" (cạo tóc phần trán), buộc tóc thành một đuôi sam, bị người phương nam gọi là "sách lỗ" (giặc buộc tóc). Trong "Bắc phong dương sa lục" và du ký của Nam Tống, cũng có nói về việc người Kim để đuôi sam, vào năm Thiên Hội thứ 7 (1129) thời Kim Thái Tông còn cưỡng chế mặc Hồ phục để đuôi sam.[35]

Bảng nhân khẩu triều Kim
Niên đạiSố hộSố khẩuGhi chú
Năm Hoằng Thống thứ 2 (1142) thời Kim Hy Tôngkhoảng hơn 5 triệu hộ32.700.000 người
Năm Đại Định thứ 27 (1187) thời Kim Thế Tông6.789.449 hộ
5.599.700 hộ
6.060.723 hộ
44.705.086 người
39.663.400 người
36.989.014 người
Năm Minh Xương thứ 1 (1190) thời Kim Chương Tông6.939.000 hộ45.447.900 người
Năm Minh Xương thứ 6 (1195) thời Kim Chương Tông7.223.400 hộ48.490.400 người
Năm Thái Hòa thứ 7 (1207) thời Kim Chương Tông7.684.438 hộ
8.413.164 hộ
45.816.079 người
53.532.151 người
Kim sử viết rằng đây là thời kỳ nhân khẩu tối thịnh.
Năm Đại An thứ 2 (1210) thời Kim Vên Thiệu Vương53.720.000 người[36]
Năm thứ tám thời Tốc Bất Đài (1236)2.000.000 hộước tính 10.500.000 người[36]Lúc này Mông Cổ chiếm được khu vực Hoa Bắc nguyên thuộc Kim và Tây Hạ.
Chú: Số liệu lấy theo "Kim sử-Thực hóa chí", "Trung Quốc nhân khẩu phát triển sử". Cát Kiếm Hùng. Phúc Kiến Nhân dân xuất bản xã

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nhà_Kim http://jwsr.ucr.edu/archive/vol12/number2/pdf/jwsr... http://books.google.com.hk/books?id=t21yghJHIpEC&p... http://www.archive.org/stream/06059337.cn#page/n11... //dx.doi.org/10.1111%2F0020-8833.00053 //dx.doi.org/10.5195%2FJWSR.2006.369 http://www.escholarship.org/uc/item/3cn68807 //www.jstor.org/stable/2600793 //www.worldcat.org/issn/1076-156X https://web.archive.org/web/20070222011511/http://... https://commons.wikimedia.org/wiki/Category:Jin_Dy...